Vẻ ngoài đơn giản
Tính thực dụng của Suzuki Ertiga thể hiện ngay ở phần thiết kế ngoại thất khi dựa trên khung gầm của “đàn em” hatchback Suzuki Swift. Việc sử dụng chung khung gầm sẽ giảm được khá nhiều chi phí sản xuất, qua đó giảm giá thành của xe.
Cách bố trí nắp ca-pô hạ thấp dần về phía trước, lưới tản nhiệt tối màu với kết cấu từ những thanh ngang ôm trọn logo hình chữ S mạ crômtrang nhã và tinh tế giống như cách mà các kỹ sư của Suzuki đã làm với Swift.
Bên cạnh đó, cụm đèn pha halogen được thiết kế khá lớn và vuốt ngược sang hai bên tạo cái nhìn tương đối hài hòa. Để tạo ra sự khác biệt, phần cản trước của Ertiga có hình chữ X thay vì chữ V như ở Swift. Thêm vào đó, phần mái của Ertiga được nâng cao hơn cho đúng “chất” MPV.
Suzuki Ertiga có phần đầu xe khá ngắn do chứa động cơ nhỏ. Chi tiết này khiến tôi nhớ đến dòng xe Kei-car (những chiếc xế hộp vuông vức, nhỏ nhắn nhưng rộng rãi) chạy đầy đường phố Nhật Bản. Với phần đầu xe ngắn cùng bán kính vòng quay tối thiểu chỉ 5.2m, người dùng dễ dàng điều khiển trong những tình huống chật hẹp ở thành phố.
Mặc dù đậm chất MPV nhưng Ertiga lại có khoảng sáng gầm xe 185 mm, cao hơn rất nhiều so với dòng sedan và tương đương với nhiều chiếc crossover trên thị trường.Nhờ đó, xe di chuyển thuận lợi hơn trên đường xóc hay gồ ghề.
Khoang xe rộng rãi
Ertiga sở hữu kích thước tổng thể dài x rộng x cao tương ứng 4.265 x 1.695 x 1.685 mm, chiều dài cơ sở 2.740 mm. Kích thước này có phầnhơi bị hụt đối với một mẫu MPVnhưng Suzuki đã chứng minh một luận điểm cực hay trong thiết kế: kích thước không phải là vấn đề, vấn đề là cách bố trí hợp lý.
Các kỹ sư của Hãng xe Nhật Bản “khéo léo” tạo ra phần nóc xe vuốt cao, kéo dài và hơi dốc về phía sau. Điều đó giúp Ertiga gia tăng không gian bên trong nội thất để xử lý tốt chiều dài có phần khiêm tốn của xe. Việc các khung cửa kính được mở rộng cùng với thiết kế cột A, cột B thu gọn hơn giúp người lái dễ dàng quan sát đồng thời tạo sự thông thoáng cho khoang nội thất.
Khoang hành lý phía sau bình thường ở mức 135 lít, tuy nhiên có thể tăng tối đa đến 736 lít khi gập cả hai hàng ghế sau. Ngoài ra, hàng ghế thứ 2 khá linh hoạt khi dễ dàng điều chỉnh vị trí hoặc gập lại theo tỉ lệ 60:40 giúp người ngồi hàng ghế thứ 3 vẫn cảm thấy thoải mái.
Thay vì “chạy đua” bổ sung những trang bị nhiều khi trở nên “thừa thãi”, Suzuki tập trung thỏa mãn nhu cầu người dùng. Đó là chỗ ngồi rộng rãi, điều hòa mát, chở được nhiều người, nhiều đồ. Vì lẽ đó mà để “cả nhà cùng vui”, Ertiga có thêm dàn lạnh tách biệt đặt trên cao phục vụ hàng ghế thứ hai và thứ ba. Dàn lạnh này có thiết kế khá linh động với 4 khe gió có thể chỉnh đến 4 vị trí ngồi khác nhau cho hai hàng ghế cuối. Đây là điểm cộng không phải bàn cãi khi đa số những đối thủ cạnh tranh với Ertiga không có trang bị này.
Sự đơn giản và hữu dụng tiếp tục được áp dụng trong thiết kế ở ca-bin (vị trí người lái). Cụm đồng hồ trung tâm không phức tạp, cầu kỳ nhưng được trang bị khá chu đáo với 1 đồng hồ hiển thị khá nhiều thông tin như: mức tiêu hao nhiên liệu trung bình, quãng đường dự kiến có thể đi được với lượng xăng còn trong bình, nhiệt độ bên ngoài, thời gian...
Vô-lăng của Suzuki Ertiga vẫn được tích hợp các phím bấm điều khiển hệ thống giải trí với ổ CD, thiết bị ngoại vi, radio…Các nút bấm này có đèn chiếu sáng nếu bật chế độ đi xe ban đêm.
Hệ thống giải trí trên Suzuki Ertiga gồm đầu CD 1 đĩa và có cả chế độ chơi nhạc từ cổng USB. Ưu điểm ở hệ thống giải trí của Suzuki Ertiga là dàn 4 loa hiếm có ở một chiếc xe phổ thông nào với âm cao và âm trầm tách bạch rõ ràng, không bị chói. Mặc dù không có 1 loa bass độc lập nào nhưng âm trầm có thể xuống khá sâu.
Vận hành ổn
Đối với một cỗ máy dung tích 1.4L, 91 mã lực mà phải “cõng” một chiếc xe với đầy đủ 7 hành khách và hành lý đi cùng thì bạn chẳng thể đòi hỏi ở nó khả năng tăng tốc nhanh hay bật vọt ngay tức thì được.
Thực tế, khi sử dụng xe trong phố thì công suất 91 mã lực đi cùng hộp số tự động 4 cấp tỏ ra đủ dùng. Cảm giác khi xe chở 5 người và một “lô” thiết bị đầy máy quay, máy ảnh, chân máy, thùng đồ như của chúng tôi thì khi tăng tốc cũng giống như những mẫu xe phân khúc A- nghĩa là bạn phải “kiên nhẫn” đạp ga một lúc thì xe mới chịu “vọt” lên. Nhưng đi phố thì cũng chỉ cần có thế. Điều thích nhất là điều khiển một mẫu MPV trong phố rất nhẹ nhàng như đang lái một chiếc xe nhỏ. Nhờđầu xe ngắn nên tôi có thể dễ dàng điều khiển trong những tình huống chật hẹp hay phải quay đầu.
Trên đường trường, xe không thể đáp ứng ngay nhu cầu vượt một chiếc container dài phía trước mà đòi hỏi người lái phải dành ra một quãng đường lấy trớn, tuy nhiên điều này cũng không phải là quá khó. Việc tối ưu giữa vòng tua và tốc độ cũng có điểm hạn chế. Ở tốc độ 80km/h mà vòng tua lên tới 2.500 vòng/phút, 100km/h (3.000 vòng/phút) thì xe không thể vận hành êm ái và tiết kiệm được. Nếu chỉ vận hành từ 80km/h trở xuống, Ertiga không có điều gì đáng phàn nàn. Thế mới nói, xe hợp với đi phố hơn.
Để tăng thêm những cảm nhận khác nhau khi lái thử Ertiga, tôi đã điều khiển chiếc xe vào con đường đất pha sỏi, gập ghềnh. Ở đây lại tìm thấy một ưu điểm rất hay của chiếc MPV “nhà Suzuki”. Xe có thể lao đi rất nhanh mà chẳng “ngán” đường xóc. Hệ thống treo MacPherson với lò xo cuộn dập tắt dao động nhanh khiến người ngồi trong không bị nảy lên. Bên cạnh đó, với một khung gầm chắc chắn, xe vượt chướng ngại cực đầm. Tôi hơi ngạc nhiên về điều này.
Đề cao tính thực dụng, nhưng không vì thế mà Suzuki coi nhẹ sự an toàn của hành khách. Ertiga vẫn có các trang thiết bị an toàn gồm: hệ thống phanh đĩa trước và phanh tang trống phía sau, 2 túi khí hàng ghế trước, hệ thống chống bó cứng phanh ABS và phân bổ lực phanh điện tử EBD. Một trang bị an toàn vừa đủ cho nhu cầu sử dụng cơ bản.
Kết luận
Đến lúc này, tôi chắc bạn đã ít nhiều hiểu thế nào là một chiếc xe thực dụng. Đó là một chiếc xe đáp ứng nhu cầu vừa đủ nhưng không hề sơ sài,hợp túi tiền, hình thức đơn giản, không gian rộng rãi, chở được nhiều người, nhiều đồ. Nếu áp các tiêu chí đó vào thì rõ ràng Ertiga - một chiếc xe nhập khẩu nguyên chiếc với giá bán chỉ 639 triệu đồng là một lựa chọn hoàn hảo.
Thế Đạt
Ảnh: Lê Hùng - Tới Nguyễn